Bệnh lý di truyền là một trong những rào cản để sinh con khoẻ mạnh hiện nay. Nhiều trường hợp bố mẹ hoàn toàn khoẻ mạnh nhưng sinh con ra mắc bệnh. Đó không chỉ là gánh nặng đối với gia đình mà còn là gánh nặng đối với nền y tế. Các bệnh di truyền theo cơ chế gen lặn rất khó phát hiện trên những người thể mang vì gần như không có biểu hiện rõ ràng, đến khi có con mới biết được thì đã quá muộn. Hiện nay, việc tầm soát bệnh di truyền để sinh con khoẻ mạnh là điều rất cần thiết. Bệnh Pompe là bệnh lý di truyền lặn liên quan đến rối loạn chuyển hoá. Vậy nguyên nhân nào gây ra bệnh Pompe? Có thể phòng ngừa bệnh Pompe không?
Di truyền gen lặn là gì?
Di truyền gen lặn là một trong những phương thức mà một tính trạng, rối loạn hoặc bệnh được kế thừa qua các thế hệ. Cần phải có hai bản sao của gen đột biến để bệnh hoặc tính trạng biểu hiện. Tùy vào nhiễm sắc thể bị ảnh hưởng hoặc các gen liên kết, đột biến có thể dẫn đến bệnh, triệu chứng hoặc đặc điểm cụ thể.
Bình thường, các gen tồn tại thành từng cặp dưới dạng 2 alen. Một gen trong mỗi cặp đến từ mẹ trong khi gen còn lại đến từ bố. Di truyền lặn có nghĩa là cả 2 gen trong một cặp phải cùng bị đột biến để gây bệnh. Người chỉ có 1 gen bất thường trong cặp được gọi là người mang gen. Họ thường không phát bệnh nhưng có thể truyền lại gen đột biến cho con.
Nếu bố mẹ mang gen lặn trên nhiễm sắc thể thường, con sinh ra có 25% có thể phát bệnh. Trường hợp bố hoặc mẹ chỉ mang 1 gen đột biến trong cặp, con có 50% trở thành người mang gen lặn.
Như vậy, một cặp vợ chồng cùng mang gen khả năng có thể xảy ra cho mỗi lần mang thai như sau:
- 25% khả năng có hai gen bình thường (khỏe mạnh)
- 50% khả năng có một gen bình thường và một gen đột biến. Là người mang gen bệnh, không mắc bệnh.
- 25% khả năng có hai gen đột biến (có thể mắc bệnh tùy theo gen liên kết).
>Sau chọc trứng bao lâu được chuyển phôi?
>Một trường hợp bệnh nhân mắc hội chứng PCOS 32 tuổi sinh con khoẻ mạnh.

Bệnh Pompe do nguyên nhân nào gây ra?
Bệnh Pompe (rối loạn dự trữ glycogen nhóm 2) còn được biết đến với các tên gọi khác như:
- Thiếu axit maltase,
- Thiếu alpha-1,4-glucosidase,
- AMD, thiếu hụt alpha-glucosidase,
- Thiếu GAA, bệnh dự trữ glycogen loại II, glycogenosis loại II, GSD II, hoặc GSD2…
Đây là một bệnh rối loạn di truyền hiếm gặp, xảy ra khi cơ thể thiếu hụt enzyme quan trọng được gọi là acid alpha glucosidase (GAA), có nhiệm vụ phân hủy các loại đường phức tạp trong cơ thể.
Kết quả là glycogen (một loại đường phức hợp) không được biến đổi thành glucose và tích tụ trong lysosome-tiêu thể. Theo thời gian, sự tích tụ này gây ra sự suy giảm nghiêm trọng của cơ bắp. Pompe là bệnh lý di truyền về rối loạn thần kinh cơ, gây tàn tật dần dần và có khả năng tử vong.
Tỷ lệ mắc bệnh Pompe dao động khoảng 1:14.000 đến 1:300.000 phụ thuộc vào chủng tộc và vùng địa lý được nghiên cứu và có thể xuất hiện khởi phát ở nhiều độ tuổi khác nhau từ lúc trẻ còn bú mẹ đến lúc trưởng thành. Tỷ lệ mắc bệnh Pompe ở nam và nữ là ngang nhau.
Phân loại bệnh Pompe và biểu hiện lâm sàng
Bệnh Pompe được phân loại thành ba dạng chính.
Khởi phát trẻ sơ sinh cổ điển:
Loại này xuất hiện trong vòng vài tháng sau khi trẻ mới sinh. Trẻ sơ sinh mắc loại này thường trải qua tình trạng:
- Yếu cơ,
- Bệnh cơ bẩm sinh,
- Kém phát triển kỹ năng vận động,
- Yếu cơ toàn thân, gan to, và dị tật tim.
Ngoài ra, trẻ có thể gặp khó khăn về hô hấp, khó bú… Nếu không được điều trị, bệnh thường dẫn đến tử vong trước 2 tuổi. Nguyên nhân do tắc nghẽn đường ra thất trái tiến triển và suy hô hấp.

Khởi phát trẻ sơ sinh không cổ điển:
Dạng này thường xuất hiện khi trẻ được 1 tuổi. Trẻ bị yếu cơ, các biểu hiện đặc trưng bao gồm việc chậm phát triển kỹ năng vận động và dị tật tim, tuy nhiên suy tim không phải là triệu chứng thường gặp. Yếu cơ trong loại này dẫn đến vấn đề nghiêm trọng về hô hấp, và hầu hết trẻ mắc bệnh Pompe dạng này chỉ sống được vài năm nếu không có liệu pháp thay thế enzym.
Khởi phát muộn:
Loại này thường nhẹ hơn so với các dạng khởi phát ở trẻ sơ sinh và ít liên quan đến vấn đề tim mạch. Người mắc bệnh ở giai đoạn muộn sẽ trải qua sự yếu cơ dần dần, đặc biệt là ở chân và thân trên, bao gồm các cơ kiểm soát hô hấp. Với sự tiến triển của bệnh, thì vấn đề về các cơ kiểm soát hô hấp vẫn có thể gây ra suy hô hấp và dẫn đến tử vong sau một giai đoạn bệnh kéo dài vài năm. Mặc dù bệnh phát triển chậm hơn so với hai dạng trước, tuổi thọ của người mắc bệnh vẫn ngắn hơn so với người bình thường.
Nguyên nhân gây bệnh
Việc thiếu và giảm hoạt động enzym GAA khiến glycogen tích tụ theo thời gian đến một mức độ gây hại cho cơ thể bên trong các ngăn tế bào được gọi là lysosome. Lysosome này đóng vai trò “trung tâm tái chế” của tế bào. Đây là nơi enzym lysosome chuyên biệt giúp phân hủy các phân tử glycogen phức tạp thành một loại đường đơn giản hơn gọi là glucose. Đây là nguồn năng lượng chính cho hầu hết các tế bào.
Các đột biến trong gen GAA ngăn chặn acid maltase phá vỡ glycogen một cách hiệu quả. Chính điều này dẫn đến loại glycogen này tích lũy đến mức gây độc hại trong lysosome. Các tế bào cơ, tim và cơ xương bị ảnh hưởng do sự thiếu hụt enzym. Glycogen tích lũy sẽ thay thế hoặc làm biến dạng các myofibrils. Myofibrils là các sợi nhỏ bên trong tế bào cơ cần thiết cho sự co lại của các tế bào. Quá nhiều glycogen tích tụ cũng dẫn đến các lysosome to ra và cuối cùng bị vỡ, giải phóng các enzyme lysosome làm tổn thương thêm các mô và dẫn đến các dấu hiệu và tiến triển các triệu chứng của bệnh.
Cơ chế di truyền của bệnh Pompe
Bệnh Pompe được di truyền theo kiểu gen lặn trên nhiễm sắc thể thường. Vì vậy cần phải có cả hai bản sao của gen đều mang đột biến từ cả bố và mẹ. Những người mang một gen bệnh thường không có triệu chứng hay dấu hiệu nào của bệnh. Nếu cả ba và mẹ đều có mang gen bệnh thì tỷ lệ đời con mắc bệnh Pompe chiếm 25%. Và thông thường những trẻ em mắc bệnh thì có ba và mẹ mang gen bệnh.

Bệnh di truyền theo cơ chế gen lặn rất khó phát hiện ở người thể mang vì gần như không có biểu hiện rõ ràng. Đến khi con sinh ra có triệu chứng thì đã muộn. Do đó các cặp vợ chồng trước khi sinh con nên làm xét nghiệm gen lặn để sàng lọc bệnh Pompe và các bệnh di truyền khác. Điều này sẽ giúp hạn chế tối đa con sinh ra có dị tật bẩm sinh hay mắc các bệnh di truyền nguy hiểm đến tính mạng.
Bệnh Pompe gây ra những hệ luỵ gì?
Bệnh Popme gây ra nhiều hệ lụy theo ba loại bệnh khác nhau.
- Bệnh Pompe ở trẻ sơ sinh cổ điển: gây yếu cơ, trương lực cơ kém, gan to và dị vật tim. Ngoài ra trẻ còn chậm tăng cân và có các vấn đề về hô hấp. Nếu không được điều trị có thể sẽ tử vong do suy tim khi trẻ được 12-18 tháng tuổi.
- Bệnh Pompe ở trẻ sơ sinh không cổ điển: trẻ chậm vận động, yếu cơ tiến triển, tim to bất thường nhưng không suy tim dẫn tới các vấn đề về hô hấp nghiêm trọng nên hầu hết trẻ chỉ sống được vài năm.
- Bệnh Pompe khởi phát muộn: bệnh thường nhẹ hơn các dạng khác và ít liên quan đến tim, người bệnh vẫn bị yếu cơ dần dần đặc biệt là ở chân và thân, cũng như gặp khó khăn trong kiểm soát hơi thở có thể dẫn đến suy hô hấp.
Bệnh Pompe có thể phòng ngừa không?



Bài viết liên quan
Viện Mô phôi có ngân hàng trứng không?
Ở người, noãn là một trong những tế bào lớn nhất với kích thước lên ...
Th11
Tại sao viêm tiểu khung có thể gây hiếm muộn?
Viêm tiểu khung là bệnh lý viêm nhiễm ở phụ nữ và có ảnh hưởng ...
Th11
Viện Mô phôi trữ đông phôi trong thời gian bao lâu?
Trước đây khi kỹ thuật đông lạnh phôi chưa phát triển, bệnh nhân được chuyển ...
Th11
Sau ly hôn người vợ có thể tự quyết định chuyển phôi hay không?
Năm 1978 em bé đầu tiên trên thế giới ra đời từ kỹ thuật thụ ...
Th11
Cấy que tránh thai có ảnh hưởng khả năng sinh sản không?
Hiện nay, một trong những biện pháp tránh thai có hiệu quả cao đó là ...
Th11
Chẩn đoán vô sinh nam dựa vào đâu?
Vô sinh hiện nay đang trở thành một vấn đề toàn cầu. Và vô sinh ...
Th11