Di truyền học đang ngày càng mở ra nhiều cơ hội cho các cặp vợ chồng sinh con khoẻ mạnh. Nếu như trước đây, các bất thường thai nhi thường phát hiện muộn. Hoặc thậm chí sinh con ra mới biết con mang bất thường. Thì hiện nay, có thể tầm soát bất thường từ giai đoạn sớm hơn. Những trường hợp có bất thường nhiễm sắc thể, bệnh lý đơn gen, PGT mang lại hiệu quả rõ rệt. Đặc biệt với những gia đình cả hai vợ chồng cùng mang gen, sinh thiết phôi là rất cần thiết. Dưới đây là một số chia sẻ về tầm quan trọng của kỹ thuật PGT – phân tích di truyền tiền làm tổ.
Ngày 19/04/2023: Polyp buồng tử cung có thể tự khỏi không?
Ngày 18/04/2023: Phôi ngày 3 là gì?
Ngày 15/04/2023: Nguy cơ vô sinh thứ phát sau khi mổ lấy thai
Ngày 17/04/2023: Phôi nang là gì?
Ngày 12/04/2023: Vô sinh thứ phát là gì?
Ngày 21/04/2023: PGT-M là gì?
1. Tầm quan trọng của kỹ thuật PGT
PGT là gì?
PGT (Preimplantation Genetic Testing- PGT) hay còn gọi sinh thiết phôi, là kỹ thuật giúp phát hiện bất thường về di truyền trong những phôi được tạo ra từ thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Chẩn đoán di truyền ở giai đoạn sớm khi phôi chưa được chuyển vào tử cung nhằm giúp lựa chọn được phôi tối ưu để chuyển phôi.
Trong một số trường hợp, phôi tạo thành có sự bất thường số lượng hay cấu trúc nhiễm sắc thể, hoặc mang các bệnh di truyền đơn gen, có thể dẫn đến sẩy thai tự nhiên, thai ngưng phát triển, thai dị tật nặng. Sinh thiết phôi sẽ giúp loại trừ các nguy cơ này trước khi chuyển phôi vào tử cung người mẹ.
Có mấy loại sinh thiết phôi?
Sinh thiết phôi gồm 3 nhóm chính:
- Xét nghiệm bất thường số lượng nhiễm sắc thể (PGT-A).
- Xét nghiệm cho tình trạng tái sắp xếp cấu trúc nhiễm sắc thể (PGT-SR).
- Xét nghiệm cho các bệnh di truyền đơn gen (PGT-M).
Tầm quan trọng của kỹ thuật PGT
- Tầm soát các bất thường về nhiễm sắc thể và gen.
- Những phôi được tầm soát về chất lượng di truyền tốt sẽ có khả năng làm tổ cao và phát triển thai tốt.
- Giảm nguy cơ sảy thai, thai dị tật.
- Giảm tỷ lệ đa thai do giảm số phôi chuyển (chuyển đơn phôi nguyên bội)
- Giảm thời gian điều trị tính đến khi đến có con do các phôi đã được chọn lọc kĩ trước khi chuyển.
- Giảm chi phí phát sinh trong quá trình điều trị các dị tật của thai nhi và không ảnh hưởng đến sức khỏe của người mẹ.
2. Ứng dụng các kỹ thuật PGT hiện nay
Hiện nay, có 3 nhóm PGT chính: PGT-M, PGT-A và PGT-SR. Mỗi nhóm phân tích di truyền sẽ có chỉ định cụ thể.
PGT – M
PGT-M trước đây gọi là PGD. PGT-M là xét nghiệm xác định các đột biến đơn gen liên quan đến một số bệnh di truyền. Ví dụ như tan máu bẩm sinh Thalassemia, Teo cơ tủy (SMA), Hemophilia… PGT-M được chỉ định cho các cặp vợ chồng mang gen đột biến gây bệnh. Có nguy cơ cao sinh con mắc bệnh di truyền đơn gen.
Mục đích của kỹ thuật PGT-M
PGT-M được thực hiện khi bố hoặc mẹ đã được chẩn đoán mang các biến thể gen gây ra một bệnh lý nào đó. Và không muốn di truyền gen bệnh cho con của mình. Sau khi xét nghiệm, các phôi bình thường không mang gen bệnh sẽ được chuyển vào tử cung của người mẹ.
Một số bệnh có thể chẩn đoán được như: Thalassemia, Hemophilia, bệnh teo cơ tủy, bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, loạn dưỡng cơ tủy, loạn dưỡng cơ bẩm sinh,…
PGT – A
PGT – A là xét nghiệm sàng lọc bất thường số lượng nhiễm sắc thể. Cơ sở của phương pháp này dựa trên việc phôi giai đoạn trước khi làm tổ vào tử cung người mẹ có tỷ lệ bất thường rất cao. Đặc biệt, đối với những phụ nữ lớn tuổi (theo tuổi sinh sản) thì tỷ lệ bất thường tăng lên rất cao và có thể lên tới 90% ở những phụ nữ trên 42 tuổi.
Mục đích của kỹ thuật PGT – A
PGt – A nhằm phát hiện các bất thường lệch bội nhiễm sắc thể của phôi. PGT – A được thực hiện cho các trường hợp như: bệnh nhân lớn tuổi (>35 tuổi), sảy thai thai lưu nhiều lần (trên 2 lần), thất bại làm tổ nhiều lần, thiểu năng tinh trùng nặng.
PGT – SR
PGT-SR là xét nghiệm đánh giá về bất thường do tái sắp xếp cấu trúc nhiễm sắc thể. Xét nghiệm PGT-SR có thể phát hiện được các bất thường nhiễm sắc thể do chuyển đoạn không cân bằng, chuyển đoạn Robertson và đảo đoạn nhiễm sắc thể.
Mục dích của kỹ thuật PGT – SR
Bệnh nhân có chuyển đoạn cân bằng thì thường không có biểu hiện gì về mặt sức khỏe. Tuy vậy trong quá trình sinh sản và di truyền cho thế hệ sau thì sự cân bằng này mất đi. Từ đó dẫn đến không đậu thai, sảy thai hoặc đứa trẻ khi sinh ra sẽ có dị tật.
Phương pháp này dành cho cặp đôi mang bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể. Vợ hoặc chồng (hoặc cả 2) không may bị đảo đoạn, lặp đoạn, chuyển đoạn, mất đoạn, nhân đoạn nhiễm sắc thể.
Chuyên ngành Hỗ trợ đang ngày càng khẳng định tầm quan trọng của kỹ thuật PGT. IVF và phân tích di truyền tiền làm tổ mở ra những cơ hội lớn cho nhiều cặp vợ chồng. Tại Viện Mô phôi, nhiều cặp vợ chồng mang bệnh lý di truyền đã đón con yêu khoẻ mạnh.
Bài viết liên quan
Chi phí trữ phôi tại Viện như thế nào?
Hiện nay, xu hướng điều trị tại các trung tâm hỗ trợ sinh sản là ...
Th10
Kích thích buồng trứng IVF có gây hại cho buồng trứng không?
Kích thích buồng trứng là giai đoạn vô cùng quan trọng khi điều trị hiếm ...
Th10
Xét nghiệm AZF trong xác định nguyên nhân gây vô sinh nam
Vô sinh nam là một trong những vấn đề nhức nhối hiện nay. Với sự ...
Th9
Ý nghĩa của bơm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân
Gần đây, Viện Mô phôi triển khai một kỹ thuật tăng tỷ lệ thành công ...
Th9
3 phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung chuyển phôi đông lạnh
Khi chuyển phôi tươi, bệnh nhân sẽ được tiến hành chuyển phôi trong chu kỳ ...
Th9
Cửa sổ làm tổ của phôi là gì?
Từ khi ra đời, phương pháp IVF đã giúp hàng triệu phụ nữ trên thế giới ...
Th9