Thay đổi số lượng nhiễm sắc thể gây ra những vấn đề gì?

000

Một người bình thường sinh ra với 46 nhiễm sắc thể (NST). 46 NST này chia thành 23 cặp, trong đó có 22 cặp NST thường và 1 cặp NST giới tính. Bất kỳ một sự thay đổi nào về số lượng NST đều có thể gây ra đột biến, bệnh lý. Những bất thường này hiện nay đều chưa thể điều trị triệt để mà chỉ có biện pháp hỗ trợ.Vậy sự thay đổi số lượng nhiễm sắc thể gây ra những vấn đề gì?

Bất thường nhiễm sắc thể có những nhóm nào?

Bộ NST của người bình thường có 46 NST. Ở nam giới sẽ có kiểu hình là 46XY, nữ giới là 46XX. Bất kỳ sự thay đổi nào đều có thể là nguyên nhân gây ra bệnh lý. 

Bất thường NST được chia làm 2 dạng chính là bất thường số lượng (thêm, bớt) và bất thường cấu trúc (lặp đoạn, đảo đoạn, chuyển đoạn, mất đoạn, NST vòng…). Phần lớn các bất thường xuất hiện ngay trong các tế bào sinh dục của cơ thể bố hoặc mẹ, nhưng cũng có những trường hợp gây ra do di truyền từ thế hệ trước.

Bất thường số lượng

Thể lệch bội là kết quả của sự không phân ly trong quá trình phân bào. Trong đó cặp NST tương đồng di chuyển đến cùng một tế bào con. Vì vậy trứng được thụ tinh sẽ nhận được một hoặc ba bản sao của NST thay vì hai bản thông thường. Do chúng liên quan đến nhiều gen, làm thay đổi cân bằng bộ gen bình thường nên hầu hết các rối loạn số lượng NST đều gây bất thường phôi. Đặc biệt là mất NST.

Bất thường số lượng NST bao gồm bất thường ở NST thường và bất thường ở NST giới tính.

Bất thường cấu trúc

Bất thường cấu trúc NST là kết quả của sự đứt gãy và nối lại không chính xác của các đoạn NST. Một loạt các bất thường cấu trúc NST dẫn đến bệnh lý.

Thay đổi số lượng nhiễm sắc thể gây ra những vấn đề gì?

Bất thường NST làm tăng nguy cơ sảy thai khi mang thai, sảy thai liên tiếp (sảy thai từ hai lần trở lên). Ảnh hưởng từ 2% đến 5% cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản.

  • Bất thường NST là nguyên nhân chính dẫn đến sảy thai sớm ở quý đầu thai kỳ (50% đến 60%). Tần suất sảy thai liên tiếp ở những trường hợp mang chuyển đoạn cân bằng cho nhận là 83,8%. Với số lần sảy thai trung bình 2,8 lần, cao hơn rất nhiều so với nhóm không có bất thường. Vì vậy, đối với những trường hợp sảy thai, sảy thai liên tiếp có bất thường di truyền NST nên được tư vấn các biện pháp điều trị hỗ trợ sinh sản để giảm nguy cơ sảy thai ở lần mang thai tiếp theo.
  • Bất thường số lượng NST như hội chứng Klinefelter do thừa một NST X ở người nam,
  • Hội chứng Turner do thiếu một NST X ở người nữ đều dẫn đến giảm khả năng sinh sản. Klinefelter gây giảm sản xuất tinh trùng, giảm hormone sinh dục nam, không có tinh trùng ở người nam. Trong khi đó Turner gây ra các biểu hiện như kinh nguyệt không đều, không có kinh, giảm dự trữ buồng trứng ở người nữ.

Làm cách nào để phát hiện bất thường nhiễm sắc thể?

Để phát hiện ra bất thường NST của một người, nhiễm sắc thể đồ sẽ được thực hiện.

Nhiễm sắc thể đồ là phương pháp phân tích bộ NST của một người trong một tế bào cơ thể. Phương pháp này nhằm tìm kiếm và phát hiện những bất thường NST về:

  • Số lượng
  • Cấu trúc như: đa bội, thiểu bội, mất đoạn, lặp đoạn, chuyển đoạn… 

Hormone Testosterone có vai trò gì đối với nam giới?

> Một số “thủ phạm” gây viêm tắc vòi trứng ở nữ giới

20210126 Nhiem sac the 1 2
Karyotype hay nhiễm sắc thể đồ phát hiện những bất thường số lượng NST.

Karyotype được tiến hành bằng cách nuôi cấy tế bào mẫu thu được trong môi trường đặc biệt. Sau khoảng thời gian thích hợp sẽ tiến hành thu hoạch, nhuộm đặc trưng, khảo sát bằng kính hiển vi có độ phóng đại lớn.

Karyotype được chỉ định xét nghiệm cho tất cả các đối tượng nghi ngờ bị rối loạn di truyền, dị tật bẩm sinh, chậm phát triển tâm thần, vô sinh – hiếm muộn, sảy thai liên tiếp…

  • Những cặp vợ chồng có tiền sử sảy thai hoặc thai lưu nhiều lần.
  • Những bệnh nhân có bất thường về kiểu hình nghi ngờ liên quan đến di truyền.
  • Mẫu nước ối và gai nhau để kiểm tra bất thường nhiễm sắc thể của thai.
  • Xác định giới tính của một người bằng cách kiểm tra sự hiện diện của nhiễm sắc thể Y. Điều này có thể được thực hiện khi giới tính của trẻ sơ sinh không rõ ràng

Một số bệnh lý di truyền liên quan đến bất thường số lượng nhiễm sắc thể

Nhiễm sắc thể thường

  • Hội chứng Down: do thừa một NST số 21 trong bộ gen, còn gọi là tam thể 21 hoặc trisomy 21. Trisomy 21 là tình trạng rối loạn NST di truyền xảy ra phổ biến nhất, khi một đứa trẻ sinh ra có thêm một bản sao của NST thứ 21 trong thai kỳ. Điều này gây ra tình trạng chậm phát triển và khuyết tật về thể chất, tinh thần của trẻ.
  • Hội chứng Edwards: 3 NST 18 hay trisomy 18. Trẻ mắc hội chứng này có thể sống không quá 1 tuổi. Đặc điểm thường gặp: khuôn mặt tròn, đầu nhỏ, cằm nhỏ; dị dạng tim, thận và 1 số cơ quan khác; trương lực cơ tăng; bất thường bàn tay và/hoặc bàn chân; chậm phát triển và khuyết tật trí tuệ nghiêm trọng.
  • Hội chứng Patau: là một dị tật bẩm sinh do bất thường NST gây ra. Cặp NST thứ 13 sẽ có thêm 1 NST thứ 3. Tạo nên một bộ ba NST, gọi là trisomy 13.

>Vì sao xảy ra tình trạng vô sinh thứ phát?

>Thai IVF và thai tự nhiên khác nhau không?

hoi chung edwards2 2
Hội chứng Edwards – bất thường số lượng NST số 18 – trisomy 18.

Nhiễm sắc thể giới tính

  • Hội chứng Turner: là một rối loạn NST chỉ ảnh hưởng đến nữ giới. Nó liên quan đến việc thiếu một phần hoặc toàn bộ NST giới tính. Bệnh nhân mắc bệnh này sẽ có một NST X. Tình trạng này có khả năng xảy ra chỉ ở 1 trên 2.000 người.
  • Hội chứng Klinefelter: xảy ra do một lỗi ngẫu nhiên khiến nam giới sinh ra có NST giới tính phụ. Đó không phải là một hội chứng di truyền. Đây là hội chứng xảy ra do tình trạng không phân li NST ở nam giới, người mắc Klinefelter thay vì có một NST giới tính X: 47XXY.
  • Hội chứng Jacobs: còn được biết đến với tên gọi hội chứng XYY. Đây là tình trạng bất thường chỉ ảnh hưởng đến nam giới. Tình trạng xảy ra khi bộ NST người nam có thêm một nhiễm sắc thể Y dư thừa: 47XYY.
  • Hội chứng Triple X: 3 NST X, xuất hiện với tỷ lệ khoảng 1/1000 trẻ sơ sinh nữ còn sống. Nhiều người nữ bị hội chứng này thường không biểu hiện đặc điểm ra ngoài. 

Polyp buồng tử cung có thể tự khỏi không?

> Sau chuyển phôi que thử thai hai vạch là đã có thai chưa?

hậu quả klinefelter
Bệnh nhân Klinefelter 47XXY.

Cần làm gì khi bị bất thường nhiễm sắc thể?

Nếu như trước đây khi khoa học chưa phát triển thì rất nhiều trường hợp sinh con ra mới biết con bị bất thường, không can thiệp sớm. Tuy nhiên  với sự phát triển vượt bậc của di truyền học có thể can thiệp từ rất sớm. Đó là thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm kết hợp sinh thiết phôi PGT. Các phương pháp này sẽ giúp loại ỏ các phôi bất thường ở giai đoạn sớm. Chỉ giữ lại những phôi hoàn toàn bình thường để chuyển vào tử cung của mẹ. 

Hiện nay có 3 nhóm PGT: PGT-M (bệnh lý di truyền đơn gen), PGT-APGT-SR. Bệnh nhân sẽ được chỉ định PGT-SR hoặc PGT-A tuỳ từng trường hợp.

Tại Viện Mô phôi lâm sàng Quân đội, quá trình sinh thiết phôi sẽ được thực hiện khi phôi đã nuôi đến giai đoạn phôi nang.

Quy trình sinh thiết phôi:

  • Thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm và nuôi phôi đến giai đoạn phôi nang. Bác sĩ sẽ thực hiện sinh thiết phôi nang bằng cách lấy từ 3 – 5 tế bào của phôi. Phôi nang có khoảng 200 tế bào nên việc sinh thiết này không làm ảnh hưởng đến chất lượng phôi. Sau đó, phôi này được đông lạnh.
  • Sau đó, mẫu sinh thiết sẽ được đem tới phòng xét nghiệm di truyền để xác định các bất thường trong bộ nhiễm sắc thể của phôi nếu có. Quá trình này mất ít nhất một tuần.
  • Khi bác sĩ đã xác định phôi không có vấn đề về mặt di truyền, phôi sẽ được chọn chuyển vào tử cung và chờ phôi làm tổ. Sau khoảng 12 ngày kiểm tra người mẹ đã mang thai hay chưa bằng xét nghiệm beta hCG.
Quy trình sinh thiết phôi
Quy trình sinh thiết phôi.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

DMCA.com Protection Status