Sinh ra những đứa trẻ khoẻ mạnh là mong ước của mỗi người làm cha mẹ. Thế nhưng trên thực tế có không ít cặp vợ chồng có thai kỳ bất thường. Thậm chí, phải đình chỉ thai kỳ do bệnh lý. Trong những trường hợp đó, thai nhi bất thường do mắc bệnh di truyền là nỗi ám ảnh của nhiều gia đình. Lúc đó, tư vấn di truyền cho những lần mang thai tiếp theo rất quan trọng. Cách tốt nhất: thực hiện thụ tinh ống nghiệm kết hợp PGT để lựa chọn phôi không mang gen bệnh. Vai trò của xét nghiệm gen trước chuyển phôi đang ngày càng khẳng định tầm quan trọng. Đặc biệt là trong chuyên ngành hỗ trợ sinh sản.
🔥Ngày 31/01/2024: Tại sao béo phì gây vô sinh ở nữ giới?
🔥Ngày 30/01/2024: Điều trị dính buồng tử cung như thế nào?
🔥Ngày 29/01/2024: Những trường hợp nào không áp dụng phương pháp IUI?
🔥Ngày 30/01/2024: Do đâu xuất hiện vòng kinh không phóng noãn?
🔥Ngày 29/01/2024: Có thể vừa xin trứng vừa xin tinh trùng được không?
Xét nghiệm gen trước chuyển phôi là gì?
Xét nghiệm gen trước chuyển phôi hay còn gọi là phân tích di truyền trước chuyển phôi. PGT (Preimplantation Genetic Testing- PGT) hay còn gọi sinh thiết phôi, là kỹ thuật giúp phát hiện bất thường về di truyền trong những phôi được tạo ra từ thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Chẩn đoán di truyền ở giai đoạn sớm khi phôi chưa được chuyển vào tử cung nhằm giúp lựa chọn được phôi tối ưu để chuyển phôi.
Có mấy loại sinh thiết phôi?
Sinh thiết phôi gồm 3 nhóm chính:
- Xét nghiệm bất thường số lượng nhiễm sắc thể (PGT-A).
- Xét nghiệm cho tình trạng tái sắp xếp cấu trúc nhiễm sắc thể (PGT-SR).
- Xét nghiệm cho các bệnh di truyền đơn gen (PGT-M).
PGT – M
PGT-M trước đây gọi là PGD. PGT-M là xét nghiệm xác định các đột biến đơn gen liên quan đến một số bệnh di truyền. Ví dụ như tan máu bẩm sinh Thalassemia, Teo cơ tủy (SMA), Hemophilia… PGT-M được chỉ định cho các cặp vợ chồng mang gen đột biến gây bệnh. Có nguy cơ cao sinh con mắc bệnh di truyền đơn gen.
Mục đích của kỹ thuật PGT-M
PGT-M được thực hiện khi bố hoặc mẹ đã được chẩn đoán mang các biến thể gen gây ra một bệnh lý nào đó. Và không muốn di truyền gen bệnh cho con của mình. Sau khi xét nghiệm, các phôi bình thường không mang gen bệnh sẽ được chuyển vào tử cung của người mẹ.
Một số bệnh có thể chẩn đoán được như: Thalassemia, Hemophilia, bệnh teo cơ tủy, bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, loạn dưỡng cơ tủy, loạn dưỡng cơ bẩm sinh,…
🛑🛑🛑🛑XEM THÊM: Làm sao để biết mình nên thực hiện IUI hay IVF?
PGT – A
PGT – A là xét nghiệm sàng lọc bất thường số lượng nhiễm sắc thể. Cơ sở của phương pháp này dựa trên việc phôi giai đoạn trước khi làm tổ vào tử cung người mẹ có tỷ lệ bất thường rất cao. Đặc biệt, đối với những phụ nữ lớn tuổi (theo tuổi sinh sản) thì tỷ lệ bất thường tăng lên rất cao và có thể lên tới 90% ở những phụ nữ trên 42 tuổi.
Mục đích của kỹ thuật PGT – A
PGt – A nhằm phát hiện các bất thường lệch bội nhiễm sắc thể của phôi. PGT – A được thực hiện cho các trường hợp như: bệnh nhân lớn tuổi (>35 tuổi), sảy thai thai lưu nhiều lần (trên 2 lần), thất bại làm tổ nhiều lần, thiểu năng tinh trùng nặng.
PGT – SR
PGT – SR là xét nghiệm đánh giá về bất thường do tái sắp xếp cấu trúc nhiễm sắc thể. Xét nghiệm PGT-SR có thể phát hiện được các bất thường nhiễm sắc thể do chuyển đoạn không cân bằng, chuyển đoạn Robertson và đảo đoạn nhiễm sắc thể.
Mục dích của kỹ thuật PGT – SR
Bệnh nhân có chuyển đoạn cân bằng thì thường không có biểu hiện gì về mặt sức khỏe. Tuy vậy trong quá trình sinh sản và di truyền cho thế hệ sau thì sự cân bằng này mất đi. Từ đó dẫn đến không đậu thai, sảy thai hoặc đứa trẻ khi sinh ra sẽ có dị tật.
Phương pháp này dành cho cặp đôi mang bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể. Vợ hoặc chồng (hoặc cả 2) không may bị đảo đoạn, lặp đoạn, chuyển đoạn, mất đoạn, nhân đoạn nhiễm sắc thể.
Vai trò của xét nghiệm gen trước chuyển phôi
Từ khi ra đời đến nay, kỹ thuật phân tích di truyền tiền làm tổ đã giúp cho hàng triệu gia đình cơ cơ hội sinh con khoẻ mạnh. Đặc biệt là đối với các trường hợp có bố mẹ mắc bệnh lý di truyền như Thalassemia, Teo cơ tuỷ, Bệnh máu khó đông…
- Tăng tỷ lệ thành công của TTTON.
- Tăng tỷ lệ phôi làm tổ sau chuyển phôi.
- Tăng tỷ lệ thành công của phụ nữ lớn tuổi (trên 35 tuổi).
- Giảm số lần thực TTTON.
Với những giá trị ý nghĩa đó, PGT đang ngày càng quan trọng. Đặc biệt, đối với chuyên ngành Hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên đây là một kỹ thuật xâm lấn và cần có chỉ định của bác sĩ. Tuyệt đối không thực hiện hàng loạt. PGT chỉ giúp sàng lọc một số bất thường di truyền trong phạm vi của xét nghiệm cụ thể chứ không thể loại trừ hoàn toàn các bất thường di truyền có thể gặp phải ở phôi. Vì vậy, sau khi có thai, bệnh nhân vẫn cần thực hiện các tầm soát thai kỳ theo tuổi thai để nhằm phát hiện ra các bất thường nếu có.
Bài viết liên quan
Tụ máu dưới màng đệm có nguy hiểm không?
Sau khi chuyển phôi và có thai, một số trường hợp bệnh nhân xuất hiện ...
Th11
IUI thất bại bao lâu có thể làm lại?
Bơm tinh trùng là một trong những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được nhiều ...
Th11
Chi phí kích thích buồng trứng điều trị IVF bao nhiêu?
Thụ tinh trong ống nghiệm được xem là “cứu cánh” cho hàng triệu cặp vợ ...
Th11
Tại sao IVF thất bại?
Năm 1978, em bé đầu tiên trên thế giới ra đời từ phương pháp thụ ...
Th11
Tỷ lệ thành công của phương pháp thụ tinh nhân tạo
Hằng năm, tỷ lệ các cặp vợ chồng khám và điều trị vô sinh hiếm ...
Th11
Cơ chế di truyền của bệnh thiếu hụt men G6PD
Bệnh lý di truyền là một trong những mối “lo sợ” của rất nhiều gia ...
Th11